Sign In

Kết quả công tác xây dựng Đảng về chính trị 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới

  09:34 13/06/2025
Xây dựng Đảng về chính trị là nhiệm vụ hàng đầu, có ý nghĩa nền tảng, tạo tiền đề cho các mặt công tác xây dựng Đảng và là yếu tố quan trọng quyết định mục tiêu, phương hướng chính trị, sự thành bại của cách mạng. Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, công tác xây dựng Đảng về chính trị đã đạt được kết quả quan trọng, góp phần vào thành công của sự nghiệp đổi mới. Theo đó, tiếp tục thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này sẽ góp phần vào thành công trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm và làm việc với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương _Ảnh: TTXVN

1- Gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự thống nhất cao trong toàn Đảng và sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, cách mạng Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong thành công đó, có sự góp phần của công tác xây dựng Đảng. Kết quả công tác xây dựng Đảng được thể hiện trên các mặt: chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, dân vận, kiểm tra, giám sát, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Xây dựng Đảng về chính trị là xây dựng và thực hiện Cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng qua từng giai đoạn cách mạng, lãnh đạo toàn diện trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Với vị thế là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, trước hết bằng việc xây dựng Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, khơi dậy được nguồn lực để phát triển đất nước. V. I. Lê-nin từng nói: “Không có cương lĩnh thì Đảng không thể tồn tại, với tư cách là một cơ cấu chính trị hoàn chỉnh”(1).

Tại Đại hội VI của Đảng, Đảng ta đã xác định rõ: “Đảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy…; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Đảng phải chăm lo xây dựng mình vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, để từ đó tác động quyết định đến sự phát triển của cách mạng nước ta”(2). Trước bước ngoặt lớn của lịch sử, khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào khủng hoảng, Đảng ta xác định nhiệm vụ: “Xúc tiến xây dựng một cương lĩnh hoàn chỉnh cho toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Trên cơ sở cương lĩnh đó, sẽ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển khoa học - kỹ thuật... đặt nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội”(3).

Tại Đại hội VII, Đảng ta đã ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) và sau đó được bổ sung, phát triển năm 2011 tại Đại hội XI của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(4).

Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân là ngọn cờ để hiệu triệu các tầng lớp nhân dân phấn đấu xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh.

Để xây dựng được Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, Đảng ta luôn giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân. Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: “Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng”(5). Đại hội X của Đảng xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(6). Đại hội X của Đảng đề ra chủ trương: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Ðiều lệ Ðảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương”(7). Đại hội XIII của Đảng đã chú trọng phát triển đảng viên từ doanh nhân để mở rộng việc tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp. Bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ngày càng được nâng lên, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo, để nắm bắt và có quyết sách phù hợp nhằm xử lý kịp thời, hiệu quả.

Ngay những năm đầu của công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn nhất quán: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta; xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho các mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp”(8). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhất quán: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”(9). Đây là nhân tố quan trọng, quyết định đến sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong Đảng, để “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” và những ai xa rời nguyên tắc đó thì “đứng ra một bên”, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh.

Đảng luôn quán triệt quan điểm xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đường lối đúng đắn của Đảng là ngọn cờ tập hợp, phát huy sức mạnh của nhân dân, phản ánh khát vọng của nhân dân, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Xây dựng Đảng về chính trị là cơ sở để đoàn kết thống nhất trong Đảng và toàn xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ngay từ Đại hội VI, Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm: “Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”(10). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) tiếp tục khẳng định bài học kinh nghiệm: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân”(11). Từ Đại hội VI, Đảng rút ra bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc” và lần đầu tiên Đảng đề ra phương châm “Thực hiện có nền nếp khẩu hiệu dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”(12). Đại hội VIII, Đảng chính thức đề ra nhiệm vụ: Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước và không còn là “khẩu hiệu” nữa. Đến Đại hội XIII của Đảng, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng đã xác định “dân là gốc” và hoàn thiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(13). Đồng thời, việc “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”(14) phải được thể hiện nhất quán, xuyên suốt và bao trùm trong tất cả văn kiện, trên tất cả nội dung, lĩnh vực: Từ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật đến việc tổ chức thực hiện; trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Đảng ta luôn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong phản biện xã hội, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội. Đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay được xây dựng, bổ sung và phát triển từng bước dựa trên nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đất nước, vừa có tính kế thừa, vừa có sự đổi mới sáng tạo, mở ra giai đoạn phát triển nhanh và bền vững cho công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng ban hành văn bản lãnh đạo của Đảng, coi trọng nâng cao năng lực dự báo; bám sát và xuất phát từ thực tiễn, đánh giá tác động, cân đối, bố trí nguồn lực và tổ chức thực hiện hiệu quả. Đảng đã từng bước khắc phục tình trạng ban hành nhiều văn bản, văn bản có nội dung chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm sửa đổi, làm cho hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực chưa cao.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương Nguyễn Văn Lợi kiểm tra, khảo sát việc vận hành thử nghiệm tại một số đơn vị hành chính cấp xã, phường mới sau sắp xếp, sáp nhập địa giới hành chính _Ảnh: TTXVN

2- Kết quả xây dựng Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân đã góp phần vô cùng quan trọng vào những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam, trong đó có thành tựu của gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới.

Trong lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, Đảng ta đặc biệt chú trọng trước hết là nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết, bảo đảm tính kịp thời, hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở. Cấp ủy, tổ chức đảng đã kịp thời cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành nghị quyết, chỉ thị, đề án, kế hoạch, chương trình hành động sát với tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã ban hành  nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo thực hiện hiệu quả nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá; khắc phục điểm yếu, giải quyết kịp thời vấn đề phức tạp của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Chú trọng việc phân công tổ chức đảng, đảng viên trong hệ thống chính trị thực hiện. Đây là sự cụ thể hóa nguyên tắc “Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” của Đảng và “kế hoạch 10 phần thì biện pháp phải 20 phần và quyết tâm 30 phần” theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng phải được chuyển hóa thành chính sách và pháp luật của Nhà nước, được tổ chức thực hiện thông qua vai trò tổ chức, quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Cấp ủy, tổ chức đảng với chức năng, nhiệm vụ theo quy định, phải lãnh đạo cụ thể hóa nghị quyết thành chính sách, pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, phân công, phân cấp, bố trí cán bộ, kiểm tra việc thực hiện và sơ kết, tổng kết. Đúng như V. I. Lê-nin đã từng nói, sau khi có đường lối đúng, việc “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”(15). Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy đã tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị bằng chương trình, kế hoạch, đề án để nghị quyết sớm đi vào cuộc sống. Đặc biệt chú trọng nguyên tắc “một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính” theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.

Để tổ chức thực hiện đường lối, cấp ủy, tổ chức đảng đều chú trọng việc nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, khắc phục khuyết điểm đã được chỉ rõ qua nhiều nhiệm kỳ đại hội: việc tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu; qua đó, khắc phục việc thể chế hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời hoặc đã thể chế, nhưng không khả thi; những biểu hiện trì trệ, tình trạng né tránh trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng. Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần:

Mười năm đầu thời kỳ đổi mới, trong điều kiện bị bao vây, cấm vận, đất nước đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Ba mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội XII của Đảng đánh giá đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình.

Gần 10 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn đạt khoảng 5,9%/năm; giai đoạn 2021-2025: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân dự kiến khoảng 6,5% - 7%/năm. Như vậy, so với trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra gay gắt, tỷ lệ lạm phát có lúc lên đến 774,7%, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trung bình khoảng gần 7% mỗi năm. GDP Việt Nam năm 2024 đạt 476,3 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng GDP vượt mức 7% (tăng 18,11 lần so với trước thời kỳ đổi mới), đứng thứ 33 trong nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tiếp tục tăng nhanh, đạt 4.700 USD năm 2024 (tăng 58 lần so với trước đổi mới). 

Nền kinh tế Việt Nam không chỉ đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, mà còn bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm nhanh và liên tục qua các năm, còn 5,71% vào năm 2023 (trước đổi mới, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ). Chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục cải thiện, đạt 0,73 điểm năm 2023, cao hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập. Tuổi thọ bình quân tăng nhanh: năm 1970 là 61 tuổi; năm 1993 là 65,5 tuổi và năm 2023 là 74,5 tuổi. Diện mạo xã hội và đời sống nhân dân ngày càng khởi sắc; tình hình chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước; vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao, tăng khả năng giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có nhiều tiến bộ. Ngay từ đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định “Đảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”(16). Những nhiệm kỳ tiếp theo đều có nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (tháng 6-1992) đã khẳng định: “Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta”(17). Đảng nhận thức rõ hơn về yêu cầu Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (tháng 11-1991), Đảng chỉ rõ: “Nhà nước ta phải được xây dựng với đầy đủ tính pháp quyền” và được khẳng định rõ hơn tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994): “xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam”, đồng thời tiếp tục được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội Đảng tiếp theo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” khẳng định đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có sự đổi mới phương thức hoạt động, gần dân, sát dân hơn, tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

3- Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo thể hiện trên tất cả lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cũng như xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Mỗi người dân Việt Nam đều tự hào khi “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Kết quả đó đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Điều đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; công tác “xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” của Đảng đáp ứng yêu cầu thiết thực của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Tuy nhiên, vẫn còn một số khuyết điểm cần sớm khắc phục: Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của xây dựng Đảng về chính trị. Chậm khắc phục tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. Việc thể chế hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước còn chậm, chưa sát thực tế hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số chủ trương, nghị quyết có nơi, có lúc chưa quyết liệt, còn yếu kém, chậm trễ nhưng chưa xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu. Công tác vận động, giáo dục, thuyết phục đảng viên và nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có mặt còn hạn chế. Nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức chính trị - xã hội chậm đổi mới, có biểu hiện hành chính hóa. Đặc biệt, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng.

Trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng tiếp tục là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, để toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng phấn đấu “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(18).

Để đạt được mục tiêu cao cả đó, xây dựng Đảng về chính trị cần đặc biệt coi trọng. Tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại để đề ra đường lối chính trị đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước và khát vọng của nhân dân. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, nâng cao chất lượng ban hành các nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng. Đây là giải pháp đột phá đầu tiên trong 3 giải pháp đột phá trong công tác xây dựng Đảng mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng”. Đồng thời, nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng; kiên quyết khắc phục những yếu kém, trì trệ trong tổ chức thực hiện trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong Đảng, kiên quyết đấu tranh phòng, chống có hiệu quả chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Xây dựng Đảng về chính trị là vấn đề sinh mệnh chính trị của Đảng, luôn là nhiệm vụ bao trùm, làm căn cứ để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, xứng đáng với vị trí, vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, với sự mong đợi của nhân dân./.

-----------------------

(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 20, tr. 417

(2) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 132

(3) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 41

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70

(5) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd,  tr. 518

(6), (7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 52, 362

(8) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 49, tr. 540

(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 109

(10) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 28 - 29

(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 65

(12) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 562

(13), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 27, 51

(15) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 44, tr. 449

(16) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr. 132

(17) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 52, tr. 191 - 192

(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 112

 

Tag:

Theo www.tapchicongsan.org.vn

Alternate Text

  • Địa chỉ: Số 15, đường Khuất Duy Tiến, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

  • Email: ttdt.hvct1@gmail.com

  • Liên hệ: 024.38543970