Đấu tranh, phản bác các luận điệu của thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, chống phá chủ trương của Đảng về đột phá hoàn thiện thể chế ở Việt Nam

00:00 03/11/2025

Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế và lực của nước ta lớn mạnh; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; tính tự chủ của nền kinh tế được cải thiện; tích lũy thêm kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Những kết quả nêu trên thể hiện thành công của đất nước trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham quan Triển lãm "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân" tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị _Nguồn: nhandan.vn

Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan luôn vận động, phát triển. Kinh tế - xã hội của Việt Nam, trong đó có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), cũng luôn vận động, phát triển không ngừng. Do vậy, để đất nước phát triển nhanh và bền vững, theo định hướng XHCN, cần không ngừng hoàn thiện đồng bộ thể chế, trước hết là thể chế để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chủ trương này không thể hoàn thành trong một sớm, một chiều bởi chịu nhiều tác động cả tích cực và tiêu cực: 1- Bối cảnh tình hình thế giới và khu vực luôn biến động, thay đổi nhanh chóng, khó lường, tác động nhiều mặt, nhiều chiều, có cả thời cơ, thuận lợi, cả thách thức, khó khăn. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể phải tìm ra điểm nghẽn, nút thắt cản trở việc hoàn thiện đồng bộ thể chế, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN để đề ra giải pháp hoàn thiện phù hợp, đưa đất nước tiếp tục phát triển, tiến cùng, có mặt vượt trước các nước nhằm xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội; 2- Do khoa học - công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, nền kinh tế cũng phát triển không ngừng, thể chế cũ chưa bắt nhịp kịp thời với sự thay đổi kinh tế - xã hội, đòi hỏi tiếp tục bổ sung, hoàn thiện thể chế. Đồng thời, lại xuất hiện nút thắt, điểm nghẽn mới, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế cho sự phát triển cao hơn của nền kinh tế của đất nước... Đó là tính quy luật phát triển biện chứng của thế giới khách quan nói chung, của đất nước, của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nói riêng.

Thực tiễn, luôn là tiêu chuẩn của chân lý, đã chứng minh: Đại hội XI của Đảng xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN... là một trong ba đột phá chiến lược để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Đại hội XII của Đảng đề ra mục tiêu phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo giá trị phổ quát của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế với các định hướng cơ bản(1). Hội nghị Trung ương 5 khóa XII tiếp tục ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 3-6-2017, “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết này thể hiện một tầm nhận thức đầy đủ, toàn diện hơn về nội hàm, bước đi, lộ trình của quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; quan điểm định hướng cũng xác định rõ hơn định hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta và xác định rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: ba đột phá chiến lược vừa kế thừa ba đột phá chiến lược do Đại hội XI, XII của Đảng đề ra; vừa bổ sung, cụ thể hóa cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Vì vậy, cần tập trung đầu tư nguồn lực và đặc biệt chú trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tạo sự chuyển biến về chất trong việc thực hiện ba đột phá chiến lược. Ba đột phá chiến lược mà Nghị quyết Đại hội XIII đề ra(2) có nhiều nhận thức mới về cách tiếp cận, mục đích và nội dung... trong đó, nội hàm đột phá chiến lược thứ nhất “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...” có nhiều nội dung mới:

Thứ nhất, trong Văn kiện Đại hội XI, XII, đột phá chiến lược thứ nhất chỉ là “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...”, tức là mới chỉ đề cập đến hoàn thiện thể chế phát triển của lĩnh vực kinh tế. Đại hội XIII đề cập “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển...”, tức là thể chế phát triển toàn diện các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Ngay vấn đề “Hoàn thiện thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...”cũng chứa đựng điểm mới: nếu ở Đại hội XII, việc hoàn thiện thể chế... nhằm nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế và quản lý nhà nước về kinh tế, Đại hội XIII nhấn mạnh mục đích “tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh”.

Thứ hai, Đại hội XIII bổ sung nội dung “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”. Đây là một cách tiếp cận vấn đề mới, rất thực tế, một phương hướng hợp lý, tích cực nhằm phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh và bền vững. Nội dung mới của đột phá chiến lược thứ nhất cần được nhận thức đầy đủ, toàn diện, thống nhất để triển khai thực hiện thành công nhằm đạt được mục tiêu do Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Nhìn tổng thể, kết quả các bước chuyển trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN qua 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới ở Việt Nam có thể thấy:

Tư duy, nhận thức về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng phù hợp điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội trong nước và định chế quốc tế.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhất là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện, nhìn chung đã điều chỉnh các khía cạnh quan trọng nhất của hoạt động kinh doanh, thương mại, đầu tư..., bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại, đầu tư... Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các thực thể trong nền kinh tế được nâng lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và ngày càng thông thoáng hơn...

Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Hầu hết loại giá được xác lập theo nguyên tắc thị trường, trừ một số hàng hóa - dịch vụ thiết yếu, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất, kinh doanh và đời sống người dân; hạn chế bất cập của kinh tế thị trường nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước và thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, phát triển kinh tế - xã hội..., trên cơ sở nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của Nhà nước.

Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc huy động và phân bổ nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội góp phần hạn chế, kiểm soát độc quyền, bảo đảm hoạt động cạnh tranh được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, công bằng và lành mạnh, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng, từng bước phù hợp với cơ chế thị trường.

Hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu; thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược. Tích cực tham gia xây dựng thị trường Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); hoàn thiện quy định về thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết quốc tế; đàm phán, ký kết và thực hiện 17 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.

Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá khái quát: “chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Trong đó, xây dựng pháp luật có nhiều đổi mới, năng lực phản ứng chính sách được nâng cao, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh; công tác tổ chức thực hiện pháp luật ngày càng gắn kết hơn với xây dựng và hoàn thiện pháp luật; cải cách hành chính, chuyển đổi số được đẩy mạnh và có những kết quả nhất định; công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai bài bản, thường xuyên và đạt được nhiều kết quả với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực, qua đó giúp tăng cường một bước kỷ cương, trách nhiệm, tính nghiêm minh trong thực thi công vụ”(3).

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm... Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ...”(4). “... Việt Nam đã trở thành một trong 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới, quy mô kinh tế tăng gần 100 lần so với năm 1986, thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD lên gần 5.000 USD”(5). Chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143.

Kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ XHCN có mối quan hệ biện chứng, tác động ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau, phát triển ngày càng vững chắc, trở thành trụ đỡ vững vàng cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới phồn vinh, hạnh phúc, trên nền tảng là nhân dân, “dân là gốc”, “dân là chủ”, “dân là trung tâm”; người dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nguồn lực cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ngày càng được hiện thực hóa. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Để thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đòi hỏi tiếp tục phải đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và xử lý hài hòa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ và phát huy vị trí, vai trò của từng nhân tố này trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”(6). “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, nhân dân là chủ thể của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi công dân tích cực, chủ động tham gia vào công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật, có ý thức thượng tôn pháp luật thì sẽ tạo nên sức mạnh của cả hệ thống chính trị để hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”(7).

Sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng được củng cố và tăng cường: độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Qua 50 năm đất nước thống nhất, Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên. Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, an toàn thông tin được tăng cường, môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước được giữ vững. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được đầu tư, củng cố, tăng cường; xử lý linh hoạt, chủ động, hiệu quả tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền. Sức mạnh chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, sức mạnh quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường... Sức mạnh tổng hợp cho phát triển đất nước được nâng lên, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Du thuyền quốc tế cập Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long _Nguồn: nhiepanhdodoisong.vn

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế... đều có sự phát triển vượt bậc. Phát triển văn hóa, xã hội, con người có nhiều tiến bộ. Định hình hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Đến năm 2024, có gần 99% số người lớn Việt Nam biết đọc, biết viết. Số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 20 lần trong gần 40 năm qua, phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2014... Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ năm 2024 đạt khoảng 28,1%, tăng 1,3% so với năm 2023. Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước được nâng lên. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được hình thành và phát triển, năm 2024 xếp thứ 56/119, tăng 2 bậc so với năm 2023; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2024 tăng 4 bậc so với năm 2022, xếp thứ 44/132. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong chính sách xã hội được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn; gắn kết kinh tế với xã hội, chính sách kinh tế với chính sách xã hội; an sinh xã hội, phúc lợi xã hội đạt kết quả tích cực; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối với người có công, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... được thực hiện đồng bộ, đạt kết quả tích cực. Sức khỏe của nhân dân được quan tâm chăm sóc; nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới được áp dụng vào việc khám, chữa bệnh. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,9% năm 2020 lên 94,1% năm 2024. Quản lý tài nguyên, đất đai được tăng cường, kiểm soát ô nhiễm môi trường được quan tâm, chú trọng huy động nguồn lực ứng phó với biến đổi khí hậu. Chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam xếp thứ 54/166, tăng 1 bậc so với năm 2023.

Quan hệ đối ngoại được mở rộng, hội nhập quốc tế ngày càng hiệu quả. Việt Nam đã và đang thể hiện rõ, tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế... Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và nâng cao. “Từ một đất nước chưa có tên trên bản đồ thế giới, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã vươn lên trở thành biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm đến của các nhà đầu tư và du khách quốc tế... Lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân là mục tiêu phấn đấu, Việt Nam được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một câu chuyện thành công, một điểm sáng về xóa đói, giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân”(8). “Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 34 nước, trong đó có tất cả thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước lớn; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế, có quan hệ chính trị, quốc phòng, an ninh phát triển sâu rộng, thực chất...

Việc tham gia các thỏa thuận hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế đa tầng nấc, nhất là 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã gắn kết Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế chủ chốt, tham gia sâu hơn vào các chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu, đưa Việt Nam lọt vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; nằm trong nhóm 20 nền kinh tế thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất thế giới từ năm 2019 đến nay, là một trong 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất thế giới”(9).

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là lựa chọn mang tầm vóc lịch sử, là sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, quy luật, xu thế phát triển chung của thời đại. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, thể dục - thể thao, quốc phòng - an ninh, đối ngoại của nước ta không ngừng nâng cao... Thành tựu sau 50 năm đất nước thống nhất mở ra cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế mới, tầm nhìn mới cho đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Sau 50 năm thống nhất, vị thế của đất nước chuyển từ nghèo nàn, lạc hậu đến nền kinh tế được đánh giá là điểm sáng của thế giới; chính trị - xã hội ổn định, môi trường đầu tư hấp dẫn, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(10).

Với quyết tâm cao nhất, hành động quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần “Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng”, “vừa chạy vừa xếp hàng”, “Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở”, bộ máy mới phải tốt hơn bộ máy cũ và đi vào hoạt động ngay, bảo đảm việc vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp thật sự “gần dân, sát dân, vì dân”, góp phần định hình mô hình quản trị quốc gia hiện đại, đủ năng lực dẫn dắt phát triển, đất nước ta đang thực hiện cuộc cách mạng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị với quyết tâm cao, hành động quyết liệt, hướng tới mục tiêu lớn, như Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: việc sắp xếp đơn vị hành chính các cấp lần này “không chỉ đơn thuần là vấn đề điều chỉnh địa giới hành chính, mà còn là điều chỉnh không gian kinh tế; điều chỉnh về phân công, phân cấp, điều chỉnh về phân bổ và kết hợp các nguồn lực kinh tế”. Xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp; sáp nhập một số tỉnh, kết thúc hoạt động cấp huyện, tiếp tục sáp nhập cấp xã, mang lại nhiều thuận lợi:

Sau khi sáp nhập, hợp nhất một số tỉnh đã tạo ra không gian phát triển mới, tạo sự kết nối nguồn lực, liên thông, liên tục, trở thành cửa ngõ kết nối vùng, biên giới, nhiều địa phương có thêm lợi thế kết nối biển... Sau khi tiếp thu, triển khai chủ trương, đường lối, chính sách... của Trung ương, chủ trương, quy định của đảng bộ, chính quyền cấp tỉnh sẽ triển khai ngay xuống đảng bộ, chính quyền cơ sở, mà không cần qua cấp trung gian là cấp huyện.

Việc bỏ khâu trung gian là tổ chức đảng, chính quyền cấp huyện sẽ giúp giảm tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức cấp huyện, nghĩa là giảm được nguồn lực rất lớn đang chi cho cấp huyện cả nước hiện nay, dành nguồn lực này để tăng cường cho cấp tỉnh và cơ sở, một phần dành cho đầu tư phát triển đất nước, đầu tư cho người dân, như khám, chữa bệnh không mất tiền; chủ trương không thu học phí cho học sinh từ mầm non, mẫu giáo đến phổ thông trung học ở các trường công lập từ năm học 2025 - 2026.

Việc bỏ khâu trung gian là tổ chức đảng, chính quyền cấp huyện sẽ giúp tổ chức đảng, chính quyền cấp tỉnh trực tiếp định hướng, chỉ đạo, quản lý, kiểm tra, giám sát sâu sát đến từng tổ chức đảng, chính quyền cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn). Tổ chức đảng, chính quyền cơ sở sẽ làm việc, báo cáo, xin ý kiến lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành... trực tiếp từ tổ chức đảng, chính quyền cấp tỉnh. Như vậy, mọi việc sẽ thông suốt từ cấp Trung ương, cấp tỉnh đến cơ sở.

Tổ chức đảng, chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) là cấp gần dân, sát dân nhất cần được tăng cường đầu tư về nhân lực, vật lực, tài lực để phục vụ nhân dân tốt hơn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hơn. Đồng thời, tổ chức đảng, chính quyền cơ sở tiếp thu và phản ánh ý kiến nhân dân kịp thời cho tổ chức đảng, chính quyền cấp tỉnh. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của cán bộ, đảng viên và nhân dân được giải quyết nhanh chóng, kịp thời...

Là cấp gần dân, sát dân nhất, tổ chức đảng, chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) sẽ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” có kết quả trong thực tiễn...

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới. Đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích (kỳ tích về một nước thuộc địa, nửa phong kiến đã chiến thắng hai đế quốc, thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây, cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Từ những vấn đề trên, có thể thấy, đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới”(11).

***

Như vậy, thực tiễn bốn thập niên đổi mới đã chứng minh, việc Việt Nam kiên định, sáng tạo và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề vững chắc cho giai đoạn phát triển mới. Đây là minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời, là lời bác bỏ đanh thép đối với mọi luận điệu xuyên tạc, chống phá chủ trương của Đảng về đột phá hoàn thiện thể chế ở Việt Nam./.

-----------------------

(1) Đó là: 1- Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; 2- Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và tổ chức sản xuất, kinh doanh; 3- Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường; 4- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường; 5- Hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội; 6- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 337 – 338

(3) GS. TS. Tô Lâm: “Phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 1.049 (tháng 11-2024), tr. 4

(4) GS. TS. Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản số 1.050 (tháng 11-2024), tr. 4

(5) GS. TS. Tô Lâm: “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản số 1.059 (4-2025), tr. 10

(6), (7) GS. TS. Tô Lâm: “Phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tlđd, tr. 4, 6

(8) GS. TS. Tô Lâm: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng - Yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới”, Tạp chí Cộng sản số 1.046 (tháng 9-2024), tr. 18 - 19

(9) GS. TS. Tô Lâm: “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”, Tlđd, tr. 10

(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 25

(11) GS. TS. Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd, tr. 4

 

Theo www.tapchicongsan.org.vn