Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước để quản lý và phát triển xã hội, chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm. Trong giai đoạn mới, thực hiện chính sách xã hội không chỉ tạo điều kiện để nhân dân được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, mà còn góp phần hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan trưng bày sản phẩm OCOP vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại Hội nghị toàn quốc Tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi _Ảnh: TTXVN
Quan điểm của Đảng về chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước để quản lý và phát triển xã hội, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, chi phối trực tiếp đến mọi mặt đời sống của người dân. Mục tiêu bao trùm của chính sách xã hội nhằm mang lại cho người dân cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc; phát triển xã hội bền vững, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và truyền thống văn hóa của dân tộc, bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách”(1). Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển(2). Yêu cầu có tính nguyên tắc này làm cho chính sách xã hội thể hiện rõ sứ mệnh theo đuổi mục tiêu, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta quyết tâm, kiên trì thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Năm 2012, lần đầu tiên Đảng ta ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 10-6-2012, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông.
Tổ chức thực hiện và tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết, Trung ương Đảng nhất trí cao đánh giá về lĩnh vực xã hội đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; kinh tế, xã hội phát triển toàn diện và hài hòa hơn. Thể chế, luật pháp, chính sách được hoàn thiện cơ bản, vững chắc; chính sách xã hội đã cơ bản bao phủ đến toàn dân; đã hình thành và phát triển được hệ thống an sinh xã hội đặc trưng của Việt Nam, bảo đảm công bằng, tiến bộ và khẳng định ba chức năng cơ bản, thiết yếu của an sinh xã hội là phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân.
Trên phương diện lý luận, quá trình đổi mới nhận thức về chính sách xã hội của Đảng ta thể hiện xuyên suốt qua các kỳ Đại hội Đảng, được lan tỏa và chuyển biến nhận thức rõ rệt trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Quyền an sinh của người dân được quy định trong các bản Hiến pháp của nước ta kể từ năm 1946. An sinh xã hội đã chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh của công dân; việc giải quyết các vấn đề xã hội từ Nhà nước giữ vai trò nòng cốt và chủ yếu(3) chuyển sang Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp và xã hội.
Liên tục trong các kỳ đại hội, quan điểm về chính sách xã hội được hoàn thiện và trở thành một hệ thống quan điểm toàn diện, vững chắc về chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới. Kế thừa thành quả đó, Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới” đã được ban hành.
Kết quả nổi bật trong thực hiện chính sách xã hội thời gian qua
Những năm qua, thực hiện chính sách xã hội mang lại những thành tựu to lớn và cơ bản, diện mạo xã hội thay đổi căn bản, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Chính sách người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và được thực hiện tốt nhất trong điều kiện kinh tế - xã hội cho phép. Cả hệ thống chính trị vào cuộc và làm tốt công tác chăm lo đời sống gia đình người có công, công tác thương binh, liệt sĩ; phong trào đền ơn đáp nghĩa sâu rộng, xuyên suốt từ Trung ương đến làng, bản, thôn, xóm. Đến nay, 99,6% gia đình người có công(4) có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú.
Từ xuất phát điểm thấp, là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, trong vòng hơn ba thập niên đổi mới, thu nhập bình quân đầu người đã tăng hơn 40 lần(5). Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên làm tiền đề và điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu xã hội. Đặc biệt, chỉ số phát triển con người (HDI) tăng lên đáng kể, đưa Việt Nam vào nhóm “các quốc gia phát triển con người cao”, xếp thứ 107/193 quốc gia(6); và xếp thứ hạng cao về chỉ số vốn nhân lực (HCI), chỉ sau Xin-ga-po trong khu vực Đông Nam Á(7).
Trong cuộc chiến chống đói nghèo, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo. Từ một quốc gia với gần 60% hộ nghèo đói, đến nay tỷ lệ hộ nghèo dưới 3%. Người nghèo có khả năng lao động được hỗ trợ học nghề, tạo sinh kế và việc làm để vươn lên thoát nghèo và làm giàu, mức sống của người nghèo, người dân trên địa bàn nghèo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được cải thiện rõ rệt.
Thể chế thị trường lao động từng bước được hoàn thiện, trở thành giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm. Kết quả hằng năm đã tạo và giải quyết được khoảng 1,5 - 1,6 triệu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp chung duy trì ổn định ở mức dưới 3%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%, là đất nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trên thế giới. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm còn 27,6%(8). Hiện nay, có khoảng 600.000 người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với thu nhập ổn định, gửi về nước lượng kiều hối lớn, khoảng 3,5 tỷ USD/năm.
Quan hệ phân phối chủ yếu dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển. Tiền lương, thu nhập được cải thiện tích cực giúp bảo đảm đời sống người lao động, thu nhập bình quân của người dân tăng hơn 2,5 lần trong 10 năm qua(9). Chính sách tiền lương tối thiểu được điều chỉnh hằng năm, đến nay mức tiền lương tối thiểu vùng đã cơ bản bảo đảm mức sống tối thiểu cho người lao động.
Nhận thức về học nghề, phát triển giáo dục nghề nghiệp trong toàn xã hội và người dân đã có chuyển biến mạnh mẽ; vị thế, vai trò của hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân được nâng cao. Quy mô đào tạo nghề tăng hằng năm, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư, chất lượng đào tạo từng bước được cải thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, góp phần nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/ chứng chỉ lên 26,44% năm 2022.
Mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển nhanh, chính sách phổ cập giáo dục bảo đảm phát triển toàn diện cho trẻ em và hỗ trợ cho đối tượng yếu thế, phổ cập giáo dục đã hoàn thành trước thời hạn từ cấp mầm non đến trung học cơ sở(10). Mạng lưới trường chuyên biệt vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục tăng quy mô, tăng số lượng học sinh được học trong các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú và dự bị đại học. Giai đoạn 2016 - 2020 ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo bình quân đạt khoảng 20% tổng chi ngân sách.
Lễ khai giảng năm học mới 2025 - 2026 tại Trường Trung học cơ sở Nguyễn Chí Diểu (thành phố Huế) _Ảnh: TTXVN
Chính sách bảo hiểm xã hội trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tăng đều hằng năm, đạt 38,08% năm 2022. Hiện nay, trên 3,3 triệu người đang hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng. Việc phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện tạo bước tiến rõ rệt, hiện nay có khoảng 1,46 triệu người tham gia, gấp 5 lần 10 năm trước đây. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm thất nghiệp năm 2022 đạt 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi, ngày càng thể hiện rõ vai trò là “bà đỡ”, hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, mất việc làm.
Trong vòng 10 năm, thực hiện thành công bảo hiểm y tế toàn dân, tạo điều kiện cho người dân tham gia và thụ hưởng dịch vụ chăm sóc y tế. Y tế dự phòng, y tế cơ sở được tăng cường, nhất là ở các huyện nghèo và các xã đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần; tuổi thọ trung bình của dân cư tăng lên 74 tuổi vào năm 2022(11).
Công tác trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang hướng tiếp cận dựa trên quyền. Các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên đã bao phủ hầu hết nhóm đối tượng đủ điều kiện được hưởng, số người hưởng tăng hằng năm, đến nay đạt 3,3 triệu người, chiếm 3,5% dân số. Trẻ em được bảo vệ và chăm sóc, có môi trường sống an toàn và được thực hiện đầy đủ quyền; chăm sóc và phát huy tốt hơn vai trò người cao tuổi; người khuyết tật được trợ giúp phục hồi chức năng, đào tạo nghề và tạo việc làm. Trợ giúp xã hội đột xuất đã bao phủ các nhóm đối tượng, bảo đảm người dân được hỗ trợ kịp thời khi gặp rủi ro, thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt trong ba năm đại dịch COVID-19 vừa qua(12).
Đã thu hẹp khoảng cách giới trên tất cả các mặt. Chỉ số phát triển giới của Việt Nam nằm trong các quốc gia thuộc nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên thế giới(13). Vai trò, địa vị của phụ nữ được củng cố và nâng cao cả trong gia đình và ngoài xã hội. Tỷ lệ nữ là lãnh đạo trong cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp đều tăng. Lao động nữ chiếm khoảng 48% lực lượng lao động và chiếm 50% đối tượng thụ hưởng chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội vẫn còn bộc lộ hạn chế, yếu kém. Kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, chênh lệch giàu nghèo còn lớn; bất bình đẳng về thu nhập có xu hướng gia tăng; đời sống của một bộ phận người dân, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị thiên tai còn khó khăn; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn lớn. Năng lực và nguồn lực bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu còn hạn chế; chất lượng môi trường ở nhiều nơi xuống cấp, nhất là tại đô thị, khu công nghiệp, làng nghề. Thị trường lao động chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực và việc làm thấp; chất lượng giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao động. Phạm vi bao phủ bảo hiểm xã hội còn thấp; độ bao phủ của chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên còn hẹp, mức chuẩn trợ cấp thấp; chất lượng và năng lực y tế cơ sở chưa đáp ứng tốt yêu cầu; y tế dự phòng còn yếu, đặc biệt là trong ứng phó với rủi ro dịch bệnh lớn; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn chậm được cải thiện; chất lượng giáo dục phổ thông ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế; nhà ở cho người lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, đô thị, lao động di cư, người có thu nhập thấp chưa được bảo đảm; tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn còn thấp.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan, như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, chủ yếu do nguyên nhân chủ quan, nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong phát triển chưa đầy đủ, thiếu toàn diện; việc lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chính quyền chưa được quan tâm đúng mức; hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ, chất lượng chưa cao; việc tổ chức triển khai thực hiện còn nhiều hạn chế; phương thức quản lý, quản trị nhà nước trong lĩnh vực xã hội chậm đổi mới, chưa hiện đại, chưa bảo đảm tính liên thông, linh hoạt và kịp thời; tổ chức bộ máy, nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn lực thực hiện chính sách xã hội có nơi, có lĩnh vực hiệu quả chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào ngân sách nhà nước.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng thực hiện chính sách xã hội là yêu cầu tất yếu trong giai đoạn mới
Bước vào thời kỳ mới, chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phải đối diện với thách thức lớn: Mặt trái của nền kinh tế thị trường, tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, di dân tự do làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, nhất là vấn đề nhà ở, ô nhiễm môi trường, quá tải hạ tầng, tình trạng thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, rủi ro và xung đột xã hội... Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo làm thay đổi phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất và tiêu dùng, thay đổi thế giới việc làm; vấn đề già hóa dân số nhanh, sự gia tăng tầng lớp trung lưu, tỷ trọng việc làm trong khu vực phi chính thức cao đang đặt ra thách thức lớn đối với chính sách lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực toàn diện. Biến đổi khí hậu và các vấn đề an ninh phi truyền thống đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, gia tăng rủi ro mâu thuẫn, xung đột xã hội, biến đổi xã hội theo chiều hướng tiêu cực. Đồng thời, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ rất vẻ vang, nhưng cũng rất nhiều thách thức(14) yêu cầu tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm và bền vững, bảo đảm an sinh, an ninh, an dân.
Chăm sóc và tiêm chủng cho trẻ sơ sinh _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã chỉ rõ điểm thay đổi căn bản của chính sách xã hội là “chuyển cách tiếp cận chính sách xã hội “từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội”(15).
Theo đó, Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới” đã mở rộng các nhóm chính sách xã hội cho tất cả đối tượng trên nguyên tắc bảo đảm tính toàn dân, toàn diện, với ba trụ cột chính: i- Chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững, phát triển thị trường lao động; ii- Chính sách an sinh xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội và giảm nghèo; iii- Chính sách nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng về y tế, giáo dục, nhà ở, văn hóa, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin.
Nghị quyết số 42-NQ/TW đề ra 4 quan điểm bao trùm, toàn diện về chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Về mục tiêu chính sách xã hội đến năm 2030: “Xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; tạo cơ hội cho Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nhà ở, thông tin. Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế gắn với việc làm bền vững; nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã hội gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân”. Về tầm nhìn đến năm 2045: “Hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho Nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước và xây dựng con người Việt Nam toàn diện. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới”. Nghị quyết số 42-NQ/TW đưa ra 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp toàn diện để thực hiện mục tiêu đề ra, trong đó nhấn mạnh 5 nội dung cơ bản, đó là:
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng trong thực hiện chính sách xã hội; tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của chính sách xã hội. Tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thực hiện chính sách xã hội. Tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò đặc biệt quan trọng của chính sách xã hội trong giai đoạn mới và khẳng định quyết tâm xây dựng và thực hiện chính sách xã hội theo hướng bền vững; dựa trên quyền con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể; phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo động lực góp phần phát triển đất nước.
Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững và phát triển thị trường lao động. Nâng cao chất lượng dân số, tận dụng hiệu quả thời kỳ dân số vàng và thích ứng kịp thời với quá trình già hóa dân số. Tạo đột phá đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, bảo đảm người lao động được đào tạo ngành, nghề phù hợp, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Phát triển thị trường lao động theo hướng linh hoạt, hiệu quả, bền vững và hội nhập; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ; hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp áp dụng cho ngành, nghề trong xã hội. Tạo việc làm bền vững cho người lao động; từng bước thu hẹp số lao động trong khu vực phi chính thức; tăng cường chính sách, cơ chế hỗ trợ vốn tạo việc làm, sinh kế cho người dân...
Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, không để ai bị bỏ lại phía sau. Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội, người dân và giữa các nhóm dân cư. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, bao phủ được toàn bộ lực lượng lao động; tiếp tục mở rộng, nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế toàn dân; đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện; hoàn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Hoàn thiện hệ thống trợ giúp xã hội, hỗ trợ người dân kịp thời khắc phục khó khăn; ưu tiên hỗ trợ cho người không có khả năng lao động, người khuyết tật, người cao tuổi, người di cư và gia đình có trẻ em, người thu nhập thấp. Nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội bảo đảm mức sống tối thiểu, sàn an sinh xã hội quốc gia. Xây dựng đội ngũ làm công tác xã hội chuyên nghiệp. Đổi mới việc huy động nguồn lực xã hội và tăng cường quản lý, sử dụng quỹ cứu trợ xã hội từ thiện, nhân đạo. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng tiếp tục được quan tâm và giành sự ưu tiên cao nhất trong chính sách xã hội, hướng tới bảo đảm người có công và gia đình người có công có mức sống từ trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Tiếp tục triển khai đồng bộ giải pháp giảm nghèo bền vững theo hướng đa chiều, bao trùm, bảo đảm mức sống tối thiểu và dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng; hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế, từng bước nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống lâu dài cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Triển khai cơ chế thí điểm phân cấp thực hiện trọn gói chương trình mục tiêu quốc gia cho cấp huyện.
Bốn là, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng, cụ thể: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở; xây dựng xã hội học tập và thúc đẩy học tập suốt đời; nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, từng bước phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi; chú trọng phát triển mạng lưới trường lớp, nhất là ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo, bãi ngang, ven biển, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đông dân cư; tăng cường giáo dục hòa nhập cộng đồng cho người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Xây dựng hệ thống y tế công bằng và chất lượng để bảo đảm điều kiện tiếp cận và chăm sóc sức khỏe cho mọi người dân. Chú trọng phát triển mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe tâm thần, chăm sóc sức khỏe phụ nữ mang thai, bà mẹ và trẻ em; quản lý bệnh mãn tính đối với người cao tuổi; thực hiện hiệu quả chính sách dinh dưỡng. Nâng cao chất lượng dự báo, giám sát, phát hiện, phòng ngừa hiệu quả dịch bệnh, bảo đảm an ninh y tế; phát triển y tế học đường, y học gia đình; khám sức khỏe định kỳ cho nhân dân. Thực hiện hiệu quả Quyết định số 2161/QĐ-TTg, ngày 22-12-2021, của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, bảo đảm cho người dân có chỗ ở thích hợp, chất lượng và an toàn. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về nhà ở xã hội; huy động xã hội, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia phát triển nhà ở xã hội.
Bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với phát triển văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, di sản văn hóa dân tộc, văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Bảo đảm nhu cầu thiết yếu về nước sạch sinh hoạt theo quy chuẩn cho người dân. Hoàn thiện chính sách về nước sạch đồng bộ, thống nhất, liên ngành, liên vùng và bảo đảm an ninh nguồn nước. Thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, ưu tiên xử lý ô nhiễm môi trường, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái, bảo vệ môi trường khu dân cư nhằm cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân.
Thực hiện chính sách, pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của công dân theo hướng bám sát nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, bảo vệ an toàn người dân. Tăng cường phổ cập dịch vụ viễn thông, hỗ trợ người dân tiếp cận thông tin, công nghệ số. Thiết lập các cụm thông tin điện tử, dịch vụ thông tin công cộng phục vụ thông tin, tuyên truyền tại các cửa khẩu, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.
Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về chính sách xã hội; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ xã hội và tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc tế. Xây dựng hệ thống quản trị hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm trong tổ chức thực hiện; đẩy mạnh cải cách hành chính. Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về chính sách xã hội từ Trung ương đến cơ sở. Chuyển đổi số sâu, rộng, toàn diện trong các lĩnh vực chính sách xã hội.
Đổi mới cơ chế huy động nguồn lực thực hiện chính sách xã hội linh hoạt, hiệu quả; tăng cường xã hội hóa, hợp tác công - tư trong thực hiện chính sách xã hội.
Phát triển hệ thống dịch vụ xã hội đa dạng, liên thông, liên tục, chuyên nghiệp. Nâng cao chất lượng dịch vụ việc làm, bảo hiểm xã hội, y tế, giáo dục, trợ giúp xã hội và hệ thống cơ sở dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng người có công với cách mạng, trẻ em mồ côi, người cao tuổi, người khuyết tật không nơi nương tựa. Hoàn thiện cơ chế, chính sách hợp tác công - tư phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ xã hội; xây dựng đội ngũ nhân viên làm công tác xã hội chuyên nghiệp.
Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác và tranh thủ nguồn lực, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế phù hợp điều kiện của Việt Nam trong thực hiện chính sách xã hội. Phấn đấu thực hiện mục tiêu là quốc gia tiên phong trong chương trình thúc đẩy toàn cầu về việc làm và an sinh xã hội hướng tới chuyển đổi công bằng theo sáng kiến của Liên hợp quốc. Tranh thủ nguồn lực quốc tế góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững; hỗ trợ, đầu tư phát triển dịch vụ xã hội, ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường xuyên biên giới./.
------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 79
(2) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, Tạp chí Cộng sản, số 1030 (1-2024), tr. 8
(3) Xem: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 55, tr. 394
(4) Cả nước có trên 9,2 triệu người có công với cách mạng và thân nhân, 1,2 triệu người được hưởng ưu đãi hằng tháng
(5) Năm 1990, thu nhập bình quân đầu người khoảng 98 USD/người, năm 2022 đạt khoảng 4.110 USD/người
(6) Điểm số HDI tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,726 năm 2022
(7) Ngân hàng Thế giới, 2020, Cập nhật chỉ số Vốn nhân lực 2020
(8) Năm 2001, tỷ lệ lao động trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp là 62,7%
(9) Thu nhập bình quân đầu người năm 2022 là 4,7 triệu đồng/người/tháng
(10) Trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 97,85%
(11) Năm 1990, tuổi thọ bình quân của dân cư là 62 tuổi
(12) Trong 3 năm qua đã nhanh chóng, kịp thời triển khai 4 gói cứu trợ chưa từng có tiền lệ, với số tiền trên 120 nghìn tỷ đồng và trên 200 nghìn tấn gạo hỗ trợ cho trên 68 triệu lượt người.
(13) UNDP, 2020, Báo cáo Phát triển con người
(14) Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao
(15) Xem: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xi/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trongbe-mac-hoi-nghi-lan-thu-8-ban-chap-hanh-trung-uongdang-khoa-xi-586
Theo www.tapchicongsan.org.vn