Ngay từ khi Đảng ta mới ra đời, để bảo vệ nền tảng tư tưởng và đường lối chính trị trước muôn vàn khó khăn, Đảng ta đã kiên quyết đấu tranh chống các chủ nghĩa, học thuyết, trào lưu tư tưởng phản cách mạng. Từ trong bản chất công tác lý luận của Đảng, việc nghiên cứu lý luận gắn chặt với đấu tranh lý luận, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng, sức sống, giá trị bền vững của nền tảng tư tưởng đã giúp Đảng ta kiên định, vững vàng, không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận cách mạng trong điều kiện mới.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao thưởng tặng các tác giả, nhóm tác giả đoạt giải A của Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ tư, năm 2024 _Nguồn: nhandan.vn
1- Ngay từ khi mới ra đời cũng như trong suốt quá trình tồn tại, chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng luôn bị các thế lực thù địch chống phá quyết liệt. Bởi, với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, các quy luật phát triển của xã hội loài người được phát hiện. Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã dự báo về sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản là tất yếu khách quan và do tất yếu khách quan kinh tế quy định. C. Mác cũng luận chứng toàn diện về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới cộng sản chủ nghĩa, theo đó “theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”(1) và “chủ nghĩa cộng sản là hình thức tất yếu và là nguyên tắc kiên quyết của tương lai sắp tới”(2), từ đó vũ trang cho giai cấp công nhân và các tầng lớp cần lao vũ khí lý luận khoa học và cách mạng để giải phóng mình và giải phóng nhân loại. Luận chứng về việc nhân loại đi đến chủ nghĩa cộng sản cũng có nghĩa luận chứng về sự tất yếu tiêu vong của chủ nghĩa tư bản, do đó học thuyết Mác đã gặp phải “sự cừu địch mạnh nhất” của thế giới tư bản. Trước sự tấn công và chống phá của các thế lực thù địch, các nhà kinh điển mác-xít vừa nghiên cứu, phát triển học thuyết của mình, vừa đấu tranh không khoan nhượng, bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là sứ mệnh tự thân có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của Đảng. Hơn nữa, việc kết hợp chặt chẽ nghiên cứu lý luận với đấu tranh lý luận là quy luật hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên tinh thần tiến công cách mạng không ngừng đối với các tư tưởng, học thuyết phản động, phi mác-xít, mỗi thời kỳ cách mạng, công tác nghiên cứu lý luận gắn liền với đấu tranh lý luận đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ, phương thức, nội dung riêng để bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng, sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác lý luận, đặt công tác lý luận lên vị trí hàng đầu: “...nhiệm vụ cần kíp của ta là phải làm cho Đảng được kiên cố về đường lý luận, tổ chức và đảng số”(3); đồng thời, phải quyết liệt đấu tranh với các tư tưởng, học thuyết phản cách mạng, như các phần tử tơ-rốt-xkít, cơ hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa duy tâm. Ngay trong Án nghị quyết của Trung ương toàn thể Hội nghị lần thứ hai của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3-1931), Đảng ta đã xác định: “Khai chiến quả quyết với hoạt đầu chủ nghĩa trong Đảng (cơ hội chủ nghĩa). Hoạt đầu chủ nghĩa trong Đảng đã rõ rệt, nếu còn không quả quyết khai chiến với nó, quyết liệt bới rễ nhổ gốc của nó trong Đảng thì không thể nào mong đào tạo cho Đảng được một nền tư tưởng cộng sản thống nhất”(4), đồng thời “trong Đảng phải kịch liệt đánh đổ hết thảy những xu hướng biệt phái, những tư tưởng sai lầm...”(5).
Các đồng chí lãnh tụ của Đảng ta đều là các nhà lý luận, đi đầu trên mặt trận đấu tranh lý luận, kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhờ đó Đảng ta đã đứng vững trước những cơn gió to sóng cả. Để kịp thời phê phán và chống sự phá hoại, quan điểm phản động của nhóm tơ-rốt-xkít ở Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XX, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đối với bọn tờrốtxkít, không thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”(6). Năm 1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập viết tác phẩm “Tờ-rốt-xky và phản cách mạng”, nêu hệ thống những quan điểm phản động của Tờ-rốt-xky; công khai phê phán những nhân vật trong nhóm tơ-rốt-xkít ở Đông Dương đang phá hoại phong trào cách mạng và việc họ đang lừa bịp nhân dân với những khẩu hiệu “tả” khuynh: “Chủ nghĩa của Tờ-rốt-xky là một chi nhánh của chủ nghĩa phát xít. Đệ tứ quốc tế là đội tiên phong của giai cấp tư bản tài chính phản cách mạng”(7). Trong tác phẩm “Tự chỉ trích”viết năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ nêu rõ bản chất và thủ đoạn của những phần tử tơ-rốt-xkít: “Bọn tờ-rốt-xkít, xét đến cốt tủy của chúng thì chúng chỉ gồm những cặn bã của phong trào nhóm họp nhau để chống cộng sản, chống cách mệnh, chia rẽ và phá hoại phong trào quần chúng”(8). Chúng “che đậy bằng trăm nghìn mặt nạ”, “núp dưới bóng cờ cộng sản”, “nhiều khi mạo nhận là cộng sản để chia rẽ”, nên phải vạch trần mưu mô khiêu khích của phái tơ-rốt-xkít...
Trong các giai đoạn còn bộn bề khó khăn, gian khổ, hy sinh, công tác lý luận và các mặt của công tác lý luận, từ nghiên cứu, tuyên truyền, đến học tập, đấu tranh lý luận... được Đảng ta quan tâm, phát triển ở các hình thức, mức độ khác nhau, như công khai, bí mật, nửa công khai - nửa bí mật... Đặc biệt, Đảng ta rất quan tâm đến công tác tuyên truyền lý luận, xem như cầu nối của công tác nghiên cứu lý luận và công tác đấu tranh lý luận: “Trong khi Đảng mới thành lập, trình độ lý luận của Đảng còn thấp kém, nền tư tưởng còn chưa vững bền, nhân tài để làm việc Đảng còn hiếm, vậy nên sự tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin cho chuyên cần trong Đảng và trong quần chúng vô sản là việc rất cần kíp để nâng cao trình độ lý luận của đảng viên lên, để gây dựng ra một nền tư tưởng vô sản trong Đảng...”(9). Ngay trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với việc thông qua các văn kiện quan trọng, Hội nghị đã quyết định: “Ban trung ương có thể xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền của ba xứ”(10). Thực hiện quyết định của Hội nghị thành lập Đảng, Tạp chí Đỏ (tiền thân của Tạp chí Cộng sản ngày nay) được xuất bản, người sáng lập và chủ biên đầu tiên là đồng chí Nguyễn Ái Quốc, ra số đầu ngày 5-8-1930, gánh vác sứ mệnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị trong toàn Đảng. Chủ trương này cho thấy tầm nhìn chiến lược, vượt trước của Đảng ta, của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Sau khi giành được chính quyền và bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta tập trung đấu tranh với các khuynh hướng tư tưởng sai lầm trong nội bộ, như sửa chữa kịp thời các khuynh hướng: Bệnh chủ quan; chủ nghĩa giáo điều; bệnh hẹp hòi, cô độc; hữu khuynh, cùng với việc phân tích thấu đạt nguyên nhân của những căn bệnh đó phần nhiều là do “kém lý luận”: “Kém lý luận thì thường mắc phải chủ nghĩa sự vụ, chủ nghĩa kinh nghiệm và bệnh cận thị về chính trị. Kém lý luận mà lại xa quần chúng thì thường mắc phải bệnh chủ quan và hẹp hòi”(11). Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ 3 của Đảng (năm 1950), một mặt, Đảng ta khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là đuốc soi đường cho chúng ta, là lợi khí đấu tranh về lý luận và chính trị của chúng ta; mặt khác, đấu tranh lý luận kiên quyết với những tư tưởng phản cách mạng du nhập vào nước ta: “Tại sao trong hàng ngũ “mácxít” Đông Dương còn những phần tử nhai đi nhai lại như trâu nhai cỏ, những lý thuyết siêu hình định mệnh của bọn tư bản Âu - Mỹ và bọn thầy tu? Tại sao trong chúng ta còn nhiều bệnh nặng như chủ quan, hẹp hòi, như chủ nghĩa cá nhân anh hùng, chủ nghĩa bản vị...?”(12). Như vậy, trong giai đoạn này, trọng tâm công tác đấu tranh lý luận là vừa đấu tranh với những tư tưởng sai lầm nội bộ, vừa đấu tranh với các tư tưởng, lý thuyết phản động du nhập vào nước ta cùng với quá trình xâm lược của thực dân Pháp: “Đã đến lúc những người cộng sản Đông Dương chúng ta phải ngang nhiên khai chiến với những quan niệm hủ bại, sai lầm trong Đảng, đem tinh thần phê bình và tự phê bình mà đả kích những chủ trương, khuynh hướng lỗi thời; đánh đổ những lý thuyết đồi bại, phản khoa học của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đang thâm nhập vào Đông Dương, trên mũi nhọn của lưỡi lê của quân đội viễn chinh Pháp”(13). Tuy nhiên, do bối cảnh kháng chiến, một số hạn chế trong quá trình nghiên cứu lý luận đã ảnh hưởng đến quá trình đấu tranh lý luận.
Bước vào giai đoạn thực hiện nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhiều vấn đề mới nảy sinh, chưa có tiền lệ, đòi hỏi lý luận phải kiến giải phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cách mạng Việt Nam. Mặt khác, do nguyên nhân chủ quan và khách quan, một số mặt công tác lý luận chưa theo kịp với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, dẫn tới một số sai lầm trong triển khai, nhất là trong giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Đặc biệt, việc nghiên cứu lý luận trong giai đoạn này tập trung làm rõ cơ sở lý luận - thực tiễn của hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, theo đó cần nghiên cứu, vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để soi sáng đường lối chống đế quốc Mỹ, cứu nước, đồng thời nghiên cứu làm rõ hơn nữa đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ trương tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện xảy ra chiến tranh. Cùng với nghiên cứu lý luận, công tác đấu tranh lý luận tập trung “nâng cao trình độ lý luận và chính sách, chống tư tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng đế quốc và phong kiến, chống tư tưởng bảo thủ, tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, tư tưởng cá nhân chủ nghĩa...”(14); đặc biệt, chống khuynh hướng phi vô sản, tư tưởng hữu khuynh, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xét lại hiện đại, góp sức bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhất là chống các quan điểm chung sống hòa bình bằng sự thỏa hiệp, từ bỏ nguyên tắc với chủ nghĩa đế quốc...
Ngày 28-12-1965, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 131-NQ/TW, thành lập Ban nghiên cứu Lý luận của Trung ương, với sự tham gia trực tiếp của nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương Đảng, do đồng chí Trường Chinh làm Trưởng Ban. Nghị quyết chỉ rõ ba nhiệm vụ của Ban Nghiên cứu Lý luận của Trung ương, thể hiện năng lực lãnh đạo và tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với việc nâng cao tính khoa học - thực tiễn và năng lực lãnh đạo của Đảng, trong đó có nội dung xác định rõ sự gắn kết giữa nhiệm vụ nghiên cứu lý luận và đấu tranh lý luận, nhằm bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; đồng thời, chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa biệt phái, bảo vệ đường lối mácxít - lêninnít...
Bước vào giai đoạn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, công tác nghiên cứu lý luận và đấu tranh lý luận gặp nhiều vấn đề mới, khó. Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đòi hỏi đổi mới, xuất hiện những tư tưởng ngụy đổi mới để hòng “đổi màu”, từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa, phản bội lý tưởng cộng sản. Công tác đấu tranh giai đoạn này tập trung “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại dưới nhiều màu sắc và những khuynh hướng sai lầm nguy hiểm khác, như chủ nghĩa dân tộc tư sản, tệ sùng bái cá nhân...”(15).
Ngày 9-2-1982, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 102-QĐ/TW, về “chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và chế độ làm việc của Viện Mác - Lênin”, theo đó Viện Mác - Lênin là cơ quan nghiên cứu khoa học trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng có chức năng nghiên cứu những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học nảy sinh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; chống trào lưu cơ hội chủ nghĩa, khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, chủ nghĩa chống cộng...
Thời kỳ đổi mới, công tác nghiên cứu lý luận và đấu tranh lý luận bước vào giai đoạn phát triển mới. Đổi mới là kết quả của quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ trong nhận thức lý luận, là quá trình phấn đấu đầy gian khổ, không ngừng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để đề ra quyết sách đổi mới lịch sử có ý nghĩa sống còn đối với sinh mệnh của Đảng và vận mệnh của đất nước.
Năm 1991, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô gây “cơn địa chấn chính trị”, làm rúng động những người cộng sản toàn thế giới, tác động rất bất lợi đến tình hình nước ta. Ở những thời điểm mang tính bước ngoặt của lịch sử, công tác nghiên cứu gắn kết chặt chẽ với đấu tranh lý luận đã kịp thời cắt nghĩa nguyên nhân biến động, chỉ ra sai lầm dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, đồng thời đúc rút bài học cho Việt Nam, như “cánh chim báo bão” để trong nước kịp thời chủ động và chuẩn bị tâm thế trước những biến động to lớn của tình hình thế giới, đồng thời tạo dựng cơ sở khoa học - thực tiễn để định hướng nhận thức lý luận đúng đắn, uốn nắn nhận thức lệch lạc, dao động, mơ hồ, thiếu niềm tin, phai nhạt lý tưởng, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, đẩy lùi chủ nghĩa cơ hội chính trị, chủ nghĩa xét lại trỗi dậy, kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta...
Trong giai đoạn này, Đảng ta ban hành nhiều nghị quyết liên quan đến công tác lý luận, trong đó định hướng sự gắn kết giữa nghiên cứu lý luận và đấu tranh lý luận, mới nhất là Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014, của Bộ Chính trị, “Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”; Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; Kết luận số 89-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW..., qua đó giúp công tác lý luận của Đảng có những chuyển biến tích cực, góp phần khẳng định bản lĩnh, uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Công tác nghiên cứu lý luận có bước chuyển mới về chất, cung cấp hệ thống cơ sở và luận cứ khoa học cho việc tiếp tục khẳng định, làm sâu sắc, sáng rõ hơn những giá trị bền vững, cũng như vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; góp phần bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được triển khai bài bản, thống nhất, toàn diện, quyết liệt, hiệu quả, vừa mở rộng về diện, vừa chú trọng chiều sâu.
Như vậy, trong suốt lịch sử hơn 95 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, dù yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng mỗi thời kỳ khác nhau, song công tác lý luận luôn được Đảng ta quan tâm lãnh đạo, có sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận và đấu tranh lý luận, thể hiện từng bước quá trình trưởng thành về năng lực, trình độ, bản lĩnh lý luận của Đảng ta; những thành tựu to lớn ở từng giai đoạn cách mạng, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có dấu ấn định hướng, mở đường của công tác lý luận.
2- Nghiên cứu lý luận và đấu tranh lý luận có mối quan hệ bổ trợ và gắn kết chặt chẽ với nhau, góp phần cấu thành nên công tác lý luận của Đảng, bao gồm các mặt: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo về lý luận; công tác nghiên cứu lý luận; công tác tư vấn, tham mưu chiến lược về lý luận; công tác đào tạo, bồi dưỡng, giảng dạy lý luận; công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, giáo dục lý luận; công tác đấu tranh lý luận, phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch... Do đó, khi xem xét mỗi mặt công tác lý luận, không thể biệt lập, mà cần nhìn trong tổng thể công tác lý luận.
Nghiên cứu lý luận tạo cơ sở, nền tảng của đấu tranh lý luận. Công tác nghiên cứu lý luận là tổng thể hoạt động nhằm phát hiện, tìm hiểu, luận chứng bản chất, quy luật vận động của sự vật, hiện tượng, của xã hội loài người, nhận thức và cải tạo thế giới, làm sáng rõ, sâu sắc thêm, đồng thời vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu lý luận cung cấp hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng khoa học - thực tiễn làm chỗ dựa vững chắc cho việc phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Có thể khẳng định, nghiên cứu lý luận tạo ra tiền đề, còn đấu tranh lý luận chính là kết quả của nghiên cứu lý luận. Công tác đấu tranh lý luận sẽ thiếu cơ sở, thiếu chiều sâu và sự chủ động nếu thiếu nghiên cứu lý luận, có thể dẫn tới đấu tranh thất bại, thậm chí phản đấu tranh, phản tuyên truyền. Như vậy, sự gắn kết giữa hai mặt công tác là sự gắn bó tất yếu nhằm khẳng định bản chất khoa học, cách mạng, bảo vệ tính trong sáng nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Xa rời, phủ nhận mục tiêu này sẽ làm cho các hoạt động nghiên cứu lý luận, đấu tranh lý luận mất phương hướng, mất đi vũ khí sắc bén, chỗ dựa vững chắc.
Nghiên cứu lý luận để bổ sung, phát triển lý luận chính là việc tăng cường sức mạnh, nội lực, giúp thế và lực về lý luận của ta ngày càng phát triển, làm cho lý luận của Đảng luôn tươi mới, ngày càng sắc bén. Đây chính là điều kiện tiên quyết, cơ bản nhất quyết định thành công của cuộc đấu tranh lý luận. Nếu nghiên cứu lý luận yếu kém, lạc hậu, “chỉ là anh hề đồng lóc cóc đi sau cỗ xe tam mã của thực tiễn” thì tự thân hệ thống lý luận không đủ sức tiến công cách mạng để đập tan các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch.
Đấu tranh lý luận là động lực thúc đẩy sự phát triển của nghiên cứu lý luận. Đây là hình thức đấu tranh đặc thù và theo chiều sâu, trên những vấn đề căn cốt nhất của nền tảng tư tưởng Đảng ta, đập tan các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch bằng lý luận, bằng hệ thống luận cứ, luận chứng chặt chẽ, thuyết phục. Đấu tranh tư tưởng gồm nhiều phương thức, lực lượng, song đấu tranh bằng lý luận là “vũ khí hạng nặng” trên mặt trận tư tưởng. Đấu tranh lý luận thúc đẩy nghiên cứu lý luận phát triển, thông qua đấu tranh lý luận mới thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu, thậm chí khoảng trống trong hệ thống lý luận của ta, từ đó tăng cường nghiên cứu kịp thời bổ sung, phát triển lý luận. Mặt khác, yêu cầu của công tác đấu tranh lý luận đòi hỏi phải nghiên cứu lý luận không ngừng, để kịp thời cung cấp “vũ khí” là hệ thống luận cứ, luận chứng khoa học sắc bén và thuyết phục cho công tác đấu tranh...
Thực tiễn cho thấy, việc gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và đấu tranh lý luận làm gia tăng sức mạnh của cả hai mặt công tác; ngược lại, việc thiếu gắn kết hoặc chỉ quan tâm mặt này, thiếu quan tâm mặt kia sẽ làm suy yếu sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả của từng mặt công tác, cũng như tổng thể công tác lý luận của Đảng ta. Khi Đảng mới ra đời, công tác lý luận và đấu tranh lý luận rất được coi trọng để bảo vệ Đảng còn non trẻ, song việc nghiên cứu lý luận gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân, trước hết là chịu sự khủng bố gắt gao của kẻ thù. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta đặc biệt quan tâm công tác lý luận, đề ra nhiều chủ trương mang tính chiến lược, song do phải dành toàn tâm, toàn lực cho kháng chiến, cả công tác nghiên cứu lý luận và đấu tranh lý luận đều chưa phát triển xứng tầm. Từ sau năm 1954 đến trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã tiến hành tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã xây dựng đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, lý luận và đường lối khi đó chịu ảnh hưởng nặng của tư duy cũ, của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp nên sang thời kỳ đổi mới, nhiều điểm không còn phù hợp. Sau khi đất nước thống nhất và tiến hành công cuộc đổi mới, công tác nghiên cứu lý luận có điều kiện phát triển toàn diện.
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cùng các đại biểu tham dự buổi gặp mặt kỷ niệm 95 năm Ngày Tạp chí Cộng sản xuất bản số đầu tiên (5-8-1930 - 5-8-2025) _Ảnh: Đình Quyết
3- Đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện với nhiều thời cơ, vận hội, đan xen khó khăn, thách thức, đòi hỏi công tác lý luận của Đảng vươn lên dẫn đường, đồng hành cùng thực tiễn, phục vụ cho việc xây dựng đường lối, hoàn thiện thể chế để đạt các mục tiêu trọng đại vào giữa thế kỷ XXI.
Trong bối cảnh đó, sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, có sự chuyển hướng tấn công, chống phá, với việc tăng cường tấn công trực diện vào những vấn đề lý luận cốt lõi thuộc nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Do đó, công tác đấu tranh lý luận, dùng lý luận để phản bác, làm thất bại các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có vai trò hết sức quan trọng. Yêu cầu đặt ra càng đòi hỏi sự gắn chặt công tác nghiên cứu lý luận với đấu tranh lý luận ở một tầm mức mới, trong đó phải tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo và đổi mới mạnh mẽ tư duy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác lý luận.
Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của công tác lý luận nói chung và sự gắn kết giữa công tác nghiên cứu lý luận và đấu tranh lý luận. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ quá trình ra đời và lãnh đạo công tác tư tưởng, công tác lý luận của Đảng. Lãnh đạo công tác lý luận phát triển toàn diện trên tất cả các mặt công tác, coi trọng sự liên thông, bổ trợ lẫn nhau giữa các nhiệm vụ, nghiên cứu lý luận là tiền đề, cơ sở cho nhiệm vụ khác, trong đó có đấu tranh lý luận. Trong triển khai những hướng nghiên cứu lớn của công tác lý luận từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cần tiếp tục quán triệt và thực hiện các vấn đề có tính nguyên tắc: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa kế thừa, bổ sung và phát triển; giữa kiên định và đổi mới; kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, giữa nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn với hoạch định, triển khai đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận và đấu tranh lý luận. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác nghiên cứu lý luận, đấu tranh lý luận phải huy động được trí tuệ, sự tham gia của đông đảo lực lượng và nhân dân, nhất là nhà khoa học đầu ngành.
Hai là, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, đấu tranh lý luận, trong tổng thể nâng cao chất lượng công tác lý luận của Đảng, trong kỷ nguyên mới.
Chất lượng, hiệu quả sự gắn kết giữa nghiên cứu và đấu tranh lý luận chỉ có thể đạt được khi từng mặt công tác có chất lượng. Kỷ nguyên phát triển mới của đất nước đặt ra nhiều vấn đề mới cần kiến giải bằng chiều sâu lý luận, đứng vững trên nền tảng tư tưởng của Đảng, khơi dậy tinh thần đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu. Bối cảnh đó đòi hỏi công tác nghiên cứu lý luận phải đổi mới và nâng tầm để đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ; cùng với những nghiên cứu lý luận căn cốt góp phần tiếp tục khẳng định giá trị bền vững và quá trình vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cần quan tâm nghiên cứu lý luận phát triển, luận chứng những vấn đề thực tiễn đất nước đang bức thiết đặt ra, theo định hướng gần đây của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ định hướng, chúng ta đã định hình được lý luận về đường lối đổi mới - bộ phận lý luận cấu thành cực kỳ quan trọng trong lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam, là một hệ thống lý luận mang tính chỉnh thể, một thành tố cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng ta, soi đường cách mạng Việt Nam. Đây là hệ thống lý luận được Đảng ta tìm tòi, phát hiện và không ngừng phát triển, thể hiện rõ nhất và khẳng định trình độ trí tuệ, bản lĩnh và năng lực lãnh đạo của Đảng ta. Lý luận về đường lối đổi mới là sự kết tinh trí tuệ, tâm huyết, công sức của tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta qua các kỳ đại hội Đảng. Đây là hệ thống quan điểm toàn diện, vừa bao hàm nội dung tổng quát, vừa chứa đựng nội dung cụ thể trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, mà nội dung chính là vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
Công tác nghiên cứu lý luận cần tiếp tục bổ sung, không ngừng hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, để đến năm 2045, khi nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, sẽ có một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học và hiện đại về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; đồng thời, vận dụng, chuyển hóa kịp thời những vấn đề căn cốt của lý luận về đường lối đổi mới vào công tác đấu tranh lý luận, bằng hệ thống luận cứ, luận chứng sắc bén, thuyết phục, với tinh thần kiên định, kiên quyết, kiên trì bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Trong công tác đấu tranh lý luận, cần chú trọng nghiên cứu về bản chất, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, làm rõ tính chất, đặc điểm mới của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết mới trên thế giới, kể cả học thuyết tiến bộ và học thuyết phi mácxít... để hiểu rõ bản chất và có cơ sở vững chắc cho công tác đấu tranh lý luận với những vấn đề mới phát sinh.
Ba là, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận và xây dựng tổ chức bộ máy làm công tác lý luận.
Cần đề ra chiến lược lâu dài và kế hoạch cụ thể khắc phục tình trạng hẫng hụt thế hệ, thiếu cán bộ làm công tác lý luận chuyên sâu, nhất là chuyên gia đầu ngành, nhà nghiên cứu đầu tàu. Các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị cần khẩn trương phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ lý luận, nhất là đối với cán bộ trẻ có triển vọng phát triển; đồng thời, cần đề ra cơ chế, chính sách đặc thù cả về vật chất, tinh thần, môi trường làm việc để thu hút, tạo động lực, phát huy trí tuệ đội ngũ cán bộ khoa học, quản lý có trình độ cao chuyên tâm làm công tác nghiên cứu lý luận, hình thành lực lượng chuyên gia đầu ngành có khả năng phát hiện, dự báo, đề xuất những vấn đề lý luận lớn, mới, có ý nghĩa và giá trị đột phá cho sự phát triển đất nước. Lãnh đạo các cơ quan, đơn vị phải hiểu rõ trách nhiệm trong giới thiệu chuyên gia nghiên cứu lý luận cũng như việc phát hiện, bồi dưỡng và phát triển chuyên gia nghiên cứu lý luận từ đội ngũ cán bộ trẻ cho Đảng. Để có một cán bộ lý luận trình độ cao, đòi hỏi sự phát hiện, chăm lo và đào tạo, rèn luyện rất công phu, lâu dài với tinh thần, thái độ khách quan, công tâm, tôn trọng của tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu và cán bộ phụ trách công tác cán bộ phải vừa có tâm, vừa có tầm.
Cần phân loại rõ và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nghiên cứu lý luận, giữa cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, chủ trì công tác lý luận; cơ quan nghiên cứu lý luận cơ bản; cơ quan nghiên cứu lý luận gắn với tư vấn, tham mưu chiến lược; cơ quan nghiên cứu lý luận gắn với đào tạo, bồi dưỡng, giảng dạy; cơ quan nghiên cứu lý luận gắn với tuyên truyền, phổ biến lý luận chính trị...; đồng thời, đề ra cơ chế, quy định cụ thể để gắn kết, liên thông, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan nhằm tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ chuyên môn.
Là cơ quan lý luận chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tiếp nhận chức năng, nhiệm vụ các tạp chí của các ban Đảng, triển khai Quyết định số 213-QĐ/TW, của Bộ Chính trị, “Về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Tạp chí Cộng sản”, Tạp chí Cộng sản là cơ quan nghiên cứu, tuyên truyền lý luận chính trị chủ lực của Trung ương Đảng, xung kích và nhuần nhuyễn trong nghiên cứu lý luận gắn với tuyên truyền lý luận và đấu tranh lý luận.
Nền tảng lý luận vững chắc là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, quyết định sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo và chiến lược phát triển đất nước. Kỷ nguyên mới của dân tộc đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ mới, đòi hỏi công tác lý luận của Đảng tiếp tục khắc phục hạn chế, để khai mở, đi vào những vấn đề lý luận mới, khó, quan trọng, thể hiện rõ bản lĩnh, tầm nhìn và tính tiền phong về lý luận của Đảng, gánh vác sứ mệnh đi trước dẫn đường. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu phát triển lý luận của Đảng và đấu tranh lý luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng luôn song hành và gắn kết chặt chẽ, như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định tại Lễ trao giải Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ tư, năm 2024: “kiên định, bảo vệ đi đôi với bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận về đường lối đổi mới; xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận cơ bản về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn cách mạng mới”(16)./.
---------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 69
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t. 42, tr. 183
(3), (4), (5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 286, 97, 121, 122
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 167
(7) Hà Huy Tập: Một số tác phẩm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 537
(8) Văn kiện Đảng toàn tập: Sđd, t. 6, tr. 627, 628
(9) Văn kiện Đảng toàn tập: Sđd, t. 3, tr. 117
(10) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 2, tr. 12
(11) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 9, tr. 236
(12) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr. 95
(13) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr. 97
(14) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 20, tr. 1078
(15) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 39, tr. 25
(16) Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Lễ trao giải Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ tư, năm 2024, https://hcma.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=18518
Theo www.tapchicongsan.org.vn